Bài thơ Đánh thức tiềm lực của nhà thơ Nguyên Duy (đầy đủ nhất)
Đánh thức tiềm lực là bài thơ được nhà thơ Nguyễn Duy sáng tác từ năm 1980-1982, vừa được đưa vào Đề thi môn Ngữ Văn Quốc Gia năm 2018. Sau đây là nội dung đầy đủ bài thơ Đánh thức tiềm lực.
Toàn bộ nội dung bài thơ Đánh thức tiềm lực của nhà thơ Nguyễn Duy như sau:
Đánh thức tiềm lực
Bài thơ trong đề thi ngữ văn năm nay không có trong sách giáo khoa và mình chưa được đọc bao giờ.
Search và đọc mới thấy nó thật sâu sắc, nhiều tầng ý nghĩa và nhiều thông điệp vẫn còn mang tính thời sự.
Cả nhà cùng đọc và nhận xét
-----
Hãy thức dậy đất đai
Cho áo em tôi không còn vá vai
Cho phần gạo mỗi nhà không còn
thay bằng ngô, khoai, sắn…
Xin bắt đầu từ cơm no áo ấm
Rồi đi xa hơn – đẹp và giầu,
và sung sướng hơn.
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu bắu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giầu đằng sông, bể giầu đằng bể
mẹ cấy lúa
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào
lòng đất rất giầu, mà mặt đất cứ nghèo sao?
Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…
Tôi lớn lên: bên bờ bãi sông Hồng
trong mầu mỡ phù xa mắu loãng
giặc gĩa từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các giòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất, mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bẩy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt, mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…
Tôi đã qua những chặng đường
miền Trung bỏng rát
và dai dẳng
bé kiếm cá
một bên là Trường – sơn – cây – xanh
bên còn lại: Trường – sơn – cát – trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng,
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gío Lào rát ruột, lắm em ơi !
Hạt giống ở đây chết đi, sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây luá đứng lên cũng đạp đất đội trời,
Tôi về quê em châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi
Đất tận sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn, nào phèn
mà sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em
Đã đi qua những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những gểnh cẳng, vuốt râu làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!
bé bán rau
Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa,
thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán rượu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm
Này, đất nước của ba miền cầy ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên.
Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì?
và trả lại được gì cho cuộc sống?
em có nghĩ tôi là con chích chòe
bé trên biển
ăn và gại mỏ
Em có nghĩ
tôi là tay chuyên sản xuất hàng gỉa ?
Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ
đục đẽo nát cả giấy
múa võ, bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh?…
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc ?
Em có nghĩ…
mà thôi !
Xin em nhìn kìa – người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!
Xin em nhìn – người gánh phân gánh thóc
(tôi cũng từng gánh phân gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh
Những cái đẹp thế kia…
em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xửa ngày xưa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa !
Em có chạnh lòng chăng?
giữa thành phố huy hoàng
bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù chiếc xe hơi chạy than
vệt than rơi tóe lửa mặt đường
Em có chạnh lòng chăng?
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
Xích lô máy và xe lam chạy dầu
vừa nã đại liên vừa
phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
bâu xít
tiềm lực còn ngủ yên…
Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giầu lắm !….
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài
Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết chuyện lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
bảy công ty dầu hỏa lớn
(dù sau này dầu mỏ có phun lên)
quặng bô xit cao nguyên
đã thành nồi, thành xoong,
thành tàu bay hay tầu vũ trụ…
dù sau này có như thế… như thế…đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại rằng:
đừng quên đất nước mình nghèo!
Lúc này
tôi và em chẳng còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn còn đường ghập ghềnh
vẫn trắng trong tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào
mà biết được
dù có sao thì vẫn phải chân thành
Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ rủ nhau
ru tiềm lực ngũ vùi trong thớ thịt.
Tiềm lực còn ngủ yên
trong qủa tim mắc bệnh đập cầm chừng
dầu khí
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
rong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè
không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn gủ yên
rong lớp da biếng lười cảm giác
năng động lên nào
từ mỗi tế bào từ mỗi gíac quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi
Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
bé cõng bé
lời nịnh hót dối lừa
có thể được tuyên dương
đạo đức gỉa có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng hơn lá mía
hôn má bên này, bật mắu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về
Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
Thích Trí Quang
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình
Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghể mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng,
nghề ngồi lê,
nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và
chẹn họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề,
là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…
xxx
Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ yên
xxx
Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
----
Nguyễn Duy
Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Duy
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, "Giọt nước mắt và nụ cười", Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Ông đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Nhà thơ Nguyễn Duy đọc bài thơ Đánh thức tiềm lực
Toàn bộ bài thơ đánh thức tiềm lực,nhà thơ Nguyễn Duy là ai,Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Duy có bài thơ Đánh thức tiềm lực
Chăm sóc da lão hóa: Bí quyết trẻ hóa làn da
Hướng dẫn trị mụn trứng cá hiệu quả
Bí quyết chống nắng hoàn hảo cho làn da khỏe đẹp
Kem dưỡng ẩm: Bí quyết dưỡng da căng mọng
Nuôi dạy con hiệu quả: Giải đáp mọi thắc mắc
Hướng dẫn nấu ăn đơn giản cho mọi người